5/5 - (1 bình chọn)

Căn cứ vào Điều 103 và Điều 106 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001 / QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10; Luật thương mại quy định về các hoạt động thương mại.

Lịch sử và nguyên tắc của luật thương mại Việt Nam

Xem thêm

>>Luật An ninh mạng là gì? Tìm hiểu nội dung trong luật an ninh mạng

>>Các loại hợp đồng lao động phổ biến ở Việt Nam

Dưới chế độ phong kiến, Việt Nam là một xã hội tự cung tự cấp, trong đó nông nghiệp được đánh giá cao và thương mại bị hạn chế. Thương nhân không thể tự hình thành một đẳng cấp được xã hội thừa nhận và không có tư cách pháp nhân riêng, vì vậy không có luật riêng cho họ. Các giao dịch thương mại đôi khi bị chi phối bởi luật hình sự hoặc luật hành chính của các quốc gia phong kiến. Giao dịch giữa các thương nhân được điều chỉnh phần lớn bởi các chuẩn mực đạo đức, phong tục và tập quán cũng như thói quen kinh doanh trong các bang hội và làng nghề.

luật thương mại

luật thương mại

Khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp ở cuối của  thế kỷ 19, những ý tưởng về tự do hóa thương mại và luật thương mại châu Âu bắt đầu được phổ biến vào Việt Nam. Các quy tắc quy định các hình thức góp vốn khác nhau để thành lập các hiệp hội nghề nghiệp như hiệp hội đối tác, hiệp hội hợp tác xã tư nhân, hiệp hội cùng có lợi và hiệp hội cổ đông. Trong các phong trào cải cách quốc gia, nhiều nhà dân chủ tư sản địa phương yêu cầu khuyến khích phát triển công nghiệp và thương mại. Chịu ảnh hưởng rất lớn từ Bộ luật Thương mại của Pháp, Vua Bảo Đại, vào ngày 12 tháng 6 năm 1946, đã ban hành một lệnh ban hành Bộ luật Thương mại để áp dụng tại miền Trung Việt Nam. Đó là Bộ luật thương mại đầu tiên tại Việt Nam.

Tuy nhiên, sau vài năm triển khai Luật Thương mại năm 1997 đã bộc lộ những hạn chế và bất cập của nó, không thỏa mãn quá trình và phát triển các hoạt động thương mại thực tế trong và ngoài nước. Điều này đòi hỏi một luật thương mại mới, được xây dựng theo các nguyên tắc sau:

– Thể chế hóa các hướng dẫn và chính sách của nhà nước Việt Nam về phát triển kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước, tập trung vào phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ.

– Tôn trọng và thúc đẩy quyền tự do trong các hoạt động thương mại.

– Tuân thủ các nguyên tắc được quy định trong Bộ luật Dân sự, trong đó nguyên tắc tôn trọng tự do và tự nguyện trong việc đưa ra các cam kết và thỏa thuận được xác định là nền tảng của hoạt động thương mại.

– Tuân thủ luật pháp hiện hành về thương mại, trong đó luật thương mại chi phối các nguyên tắc và thể chế chung về thương mại hàng hóa và dịch vụ.

– Tuân thủ các điều ước quốc tế về thương mại mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập, cũng như các luật lệ và thông lệ thương mại quốc tế.

– Đảm bảo tính minh bạch và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, không cản trở các hoạt động thương mại hợp pháp trên thị trường.

Luật thương mại mới đã được Quốc hội thông qua vào ngày 14 tháng 6 năm 2005 và có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2006. Nó bao gồm 9 chương với 324 điều. So với Luật Thương mại năm 1997, phạm vi điều chỉnh của luật mới đã được mở rộng để không chỉ bao gồm thương mại hàng hóa mà còn cả các hoạt động cung cấp dịch vụ và các hoạt động xúc tiến thương mại.

Theo như các nguyên tắc của hoạt động thương mại, Luật Thương mại năm 1997 đã quy định một số nguyên tắc như quyền bình đẳng trước pháp luật và hợp tác trong hoạt động thương mại và bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sản xuất và người tiêu dùng. Tuy nhiên, các điều khoản này đã không thể hiện rõ bản chất của các hoạt động thương mại và không nêu rõ đây là những nguyên tắc hay chính sách. Để khắc phục nhược điểm này, Luật Thương mại năm 2005 đã xác định lại các nguyên tắc cơ bản của hoạt động thương mại cho phù hợp với các nguyên tắc được quy định trong Bộ luật Dân sự, các hoạt động thương mại thực tế tại Việt Nam và thông lệ quốc tế. Chúng bao gồm các nguyên tắc như:

– Bình đẳng của thương nhân trước pháp luật trong hoạt động thương mại.

– Tự do và tự nguyện hợp đồng trong các hoạt động thương mại.

– Áp dụng thực tiễn trong hoạt động thương mại đã được thiết lập giữa các bên.

– Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.

– Công nhận tính hợp lệ của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại.

Xử lý vi phạm luật thương mại

xử lý vi phạm luật thương mại

Hành vi vi phạm luật thương mại bao gồm:

a) Vi phạm quy định về đăng ký kinh doanh; giấy phép kinh doanh của thương nhân; thành lập và vận hành văn phòng đại diện, chi nhánh thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài;

b) Vi phạm quy định về hàng hóa, dịch vụ giao dịch trong nước, hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu; tạm nhập để tái xuất, tạm xuất để tái nhập; chuyển qua cửa khẩu; quá cảnh;

c) Vi phạm quy định về thuế, hóa đơn, chứng từ, sổ kế toán, báo cáo;

d) Vi phạm quy định về giá cả hàng hóa, dịch vụ;

đ) Vi phạm các quy định về ghi nhãn hàng hóa lưu thông nội địa và xuất nhập khẩu;

f) Buôn lậu, buôn bán hàng hóa nhập lậu, hàng giả hoặc nguyên liệu, nguyên liệu để sản xuất hàng giả, hoặc kinh doanh bất hợp pháp;

g) Vi phạm các quy định về chất lượng hàng hóa và dịch vụ giao dịch trong nước, hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu;

h) Lừa dối và lừa dối khách hàng trong việc mua bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ;

i) Vi phạm các quy định về bảo vệ quyền lợi của khách hàng;

j) Vi phạm các quy định về quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa và dịch vụ giao dịch trong nước; và hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu hoặc nhập khẩu;

k) Vi phạm quy định về xuất xứ hàng hóa;

l) Các vi phạm khác trong hoạt động thương mại theo quy định của pháp luật.

Các hình thức xử lý vi phạm pháp luật thương mại (điều 321)

1. Tùy thuộc vào tính chất, mức độ nghiêm trọng và hậu quả của vi phạm, các tổ chức và cá nhân vi phạm sẽ bị xử lý theo một trong các hình thức sau:

a) Xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;

b) Trường hợp hành vi vi phạm liên quan đến tất cả các yếu tố cấu thành tội phạm thì người vi phạm sẽ bị xem xét trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

2. Trong trường hợp hành vi vi phạm gây tổn hại đến lợi ích của Nhà nước hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức hoặc cá nhân, thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Lời kết

Bộ luật thương mại có rất nhiều nguyên tắc và quy định riêng thành từng điều khoản rất rõ ràng, trong nội dung bài viết này chỉ là một vài ý kiến nhỏ trong bộ luật thương mại. Toàn bộ người dân Việt Nam hiện nay đang thực hiện theo bộ luật thương mại ở Việt Nam, bộ luật này đã được thông qua vào ngày 14 tháng 6 năm 2005 bởi Quốc hội Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam lần thứ XI tại kỳ họp thứ 7. Đến thời điểm hiện tại chưa có thay đổi hay sửa chữa lớn, tuy nhiên trong tương lai chúng ta chưa thể nói trước được gì.